fbpx

Các mức độ gian lận Báo cáo tài chính (3)

“Đừng để thời gian trôi qua thật lãng phí, hãy đọc và suy ngẫm để tạo ra giá trị bền vững trong tương lai” VOT PARTNERS

Dòng tiền trong Doanh nghiệp có gian lận được không?

I. Đánh giá doanh nghiệp dựa trên dòng tiền kinh doanh liệu đã đủ?

Những hạn chế của nguyên tắc dồn tích trong kế toán đã bị lợi dụng qua rât nhiều thế hệ, quốc gia trên toàn thế giới. Khi nhận thức của nhà đầu tư nâng cao dần thì các thủ thuật cũng trở nên tinh vi, khó bóc tách và nhận diện hơn. Trong một môi trường kinh doanh biến đổi hàng ngày, việc cập nhật các kỹ năng, chuyên môn là một phần không thể thiếu của công việc đầu tư nói riêng. Với các mức độ gian lận đã được bóc tách từ làm đẹp số liệu để tránh sự biến động lớn, làm cho bức tranh tài chính của công ty “có thể dự đoán được”, ghi nhận doanh thu sớm, kéo giãn chi phí trong khoảng thời gian dài hơn, các khoản doanh thu, chi phí ảo cho tới việc trì hoãn ghi nhận doanh thu, đưa các chi phí, nghĩa vụ ở trong tương lai về hiện tại (Cooking jar) nhằm dự trữ cho tình hình khó khăn của Công ty trong các năm tới… Nhà đầu tư đã hình thành những cái nhìn thận trọng hơn về “chất lượng lợi nhuận” của Doanh nghiệp. Một trong những biến số đáng tin cậy để đo lường được chất lượng lợi nhuận là khả năng tạo ra tiền của Doanh nghiệp, một số nhà đầu tư tập trung hơn vào Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (CFFO), phân tích xu hướng của Dòng tiền này cùng với Lợi nhuận ròng tạo ra để có được một cặp chỉ tiêu đáng tin cậy hơn và thật không may các chủ Doanh nghiệp và các Giám đốc tài chính “thấu hiểu” nhu cầu này từ nhà đầu tư nên đã chuẩn bị rất chu đáo các kỹ thuật nhằm tạo ra một Dòng tiền kinh doanh mạnh và bền vững cho Công ty.

Dòng tiền chảy trong Doanh nghiệp được phân loại dựa trên bản chất của giao dịch đó thành ba phần: Kinh doanh, đầu tư và tài chính. Trong đó, dòng tiền kinh doanh được nhà đầu tư để mắt tới nhiều nhất vì liên quan tới hoạt động kinh doanh chính và vận hành của doanh nghiệp. Các kỹ thuật gian lận tài chính dù là vô tình hay có chủ ý cũng sẽ tác động ít nhiều tới dòng tiền, ở trường hợp này xét trong khía cạnh gian lận có chủ ý. Các kỹ thuật có rất nhiều nhưng có một nguyên lý chung như Robin Hood đã từng làm là “ăn cắp của người giàu chia cho người nghèo”, tức dịch chuyển dòng tiền ra của hoạt động kinh doanh sang một trong hai dòng tiền còn lại, dòng tiền thu từ hai dòng tiền đầu tư và tài chính lại được ghi nhận ngược lại vào dòng tiền thu vào trong hoạt động kinh doanh, những “chiêu” có thể kể tới chia thành ba nhóm chính theo Howard M.Schilit (CEO của CFRA) và Jeremy Perler ( Director of Research của tổ chức CFRA – Center of Finanicial Research and Analysis):

II. Di chuyển dòng tiền vào từ hoạt động tài chính (CFFF) sang dòng tiên hoạt động kinh doanh (CFFO):

2.1 Ghi nhận CFFO ảo từ việc vay mượn Ngân hàng thông thường:

Thường khi Doanh nghiệp đi vay vốn lưu động từ Ngân hàng sẽ phải thế chấp các quyền tài sản như các hợp đồng phải thu, hoặc hàng hóa hình thành từ tài sản đó như hàng tồn kho luân chuyển và được đăng ký các giao dịch đảm bảo xác nhận. Từ sau những gian lận hàng tồn kho ảo, các Ngân hàng cũng thận trọng việc nhận các tài sản đảm bảo dạng này như một dạng tài sản bổ sung để xử lý chứ không phải là cơ sở để cho vay, giải ngân – đây là một giao dịch vay mượn rất bình thường. Điều bất thường xảy ra khi Doanh nghiệp thực sự không có nhu cầu vay nhưng lại muốn “bán” sản phẩm này cho Ngân hàng và dĩ nhiên các Ngân hàng không có nhu cầu mua các sản phẩm này vì họ là tổ chức kinh doanh tiền. Giao dịch sẽ diễn ra tương tự như một hợp đồng Repo tức Doanh nghiệp sẽ bán hàng hóa và kèm một điều khoản mua lại một thời gian ngắn sau đó với giá cao hơn số tiền nhận ban đầu. Về bản chất kinh tế đây vẫn là một giao dịch vay mượn có tài sản đảm bảo, hạch toán đúng sẽ là tăng nợ vay và tiền, nhưng trường hợp này DN có thể ghi nhận tiền nhận từ Ngân hàng như một dòng tiền vào từ HĐKD, dòng tiền trả nợ sau đó cũng thuộc dòng tiền ra từ HĐKD. Rõ ràng là doanh thu và lợi nhuận và cả dòng tiền kinh doanh trong trường này đều tăng trước khi “chốt sổ” cho kỳ kế toán.

Vấn đề trở nên phức tạp hơn một chút, khi các Tập đoàn thành lập ra các tổ chức có mục đích đặc biệt (SPEs) nhằm kí một hợp đồng vay nợ với nhiều Ngân hàng, số tiền các SPEs vay được sẽ tài trợ cho việc mua lại hàng hóa từ Tập đoàn mẹ. Dòng tiền từ SPEs chảy qua Tập đoàn sẽ được ghi nhận là dòng vào của CFFO. Trên thực tế không có dòng tiền thực nào được tạo ra cả và chỉ đơn thuần là bỏ tiền từ túi bên trái qua túi bên phải nhưng lại không phải ghi nhận dòng ra của CFFO. Trên thực tế kỹ thuật này đã được “Made in Vietnam” dưới hình thức tinh vi và phức tạp hơn. Bằng việc các SPEs trực tiếp sở hữu ngược lại cổ phần trong Tập đoàn và bán hàng dưới thương hiệu của Tập đoàn mẹ, dùng nguồn vốn tài trợ từ Ngân hàng để nhập nguyên vật liệu bán lại cho Tập đoàn sau đó mua lại thành phẩm và bán ra ngoài thị trường dưới thương hiệu của Tập đoàn mẹ, đây là một hình thức chuyển giá hay xảy ra tại thị trường Việt Nam vượt lên trên mức gian lận và làm đẹp Báo cáo tài chính.

2.2 Tăng CFFO bằng việc bán các khoản phải thu trước khi tới ngày thu hồi thực tế:

Về quy trình thực hiện cũng tương tự như trường hợp bán sản phẩm của Công ty cho Ngân hàng và ghi nhận sai bản chất, ngoài ra các Công ty có thể sử dụng các công cụ chưa được phổ biến rộng rãi tại Việt Nam là bao thanh toán và chứng khoán hóa.

Dấu hiệu nhận biết trong trường hợp này là các khoản phải thu giảm rất mạnh trong một khoảng thời gian ngắn, những khoản phải thu này chưa tới hạn và sẽ được “bổ sung” vào dòng tiền hoạt động kinh doanh trong tương lai tuy nhiên lại được DN mang ra sử dụng để làm đẹp báo cáo trước sẽ để lại một “lỗ hổng” lớn trong tương lai. Ngoài ra, việc làm này cũng có thể suy luận rằng DN gặp khó khăn về vốn lưu động, thay vì tìm tới NH với một khoản vay sẽ làm “xấu” đi báo cáo tài chính. Nhà đầu tư bên cạnh phân tích những chỉ tiêu trung bình cần quan tâm tới số dư phải thu tại thời điểm cuối mỗi quý. Thông thường, từ khi diễn ra việc khủng hoảng dòng tiền trong các Công ty tới khi phá sản là một khoảng thời gian không dài, do các Công ty thường tìm nhiều cách để che đậy tình hình cũng như cả sự khó khăn về thanh khoản.

Chính sách kế toán của Công ty cũng sẽ nói nhiều cho nhà đầu tư biết các rủi ro tiềm ẩn từ việc ghi nhận Doanh thu theo hình thức ước lượng khối lượng công việc hoàn thành mà không có xác nhận của khách hàng dẫn tới việc không thống nhất được khi xuất hóa đơn, chứng từ thực tế và các khoản phải thu đã được ghi nhận kéo dài thời gian thu hồi ra và gây khó khăn cho thanh khoản, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh. Một số doanh nghiệp lớn thuộc ngành xây dựng của Việt Nam sử dụng phương pháp này để tăng trưởng nóng và để lại hậu quả là những khoản nợ quá hạn phải trích lập, ăn vào lợi nhuận hoạt động của Doanh nghiệp trong các kỳ kế toán sau. Trên thực tế nhà đầu tư không thể biết được danh sách các khách hàng quá hạn với số tiền từng người thế nào, tuổi nợ bao nhiêu và Công ty có trích lập đúng theo quy định của pháp luật hay không.

2.3 Tăng CFFO bằng việc giả mạo doanh thu từ các khoản phải thu:

Những khoản doanh thu ảo tạo ra các khoản phải thu ảo mà không bao giờ có thể thu hồi được, vì các giấy tờ tạo ra không đi kèm với bản chất kinh tế thực hoặc ít nhất việc ghi nhận không đúng thời điểm. Ngay cả các Ngân hàng cũng phải “dè chừng” với các tài sản này vì việc lập ra các SPEs ở Việt Nam không hề khó để phục vụ cho mục đích riêng của chủ doanh nghiệp.

Mặc dù dấu hiệu này rất khó để nhận biết, cách tốt hơn để giảm thiểu rủi ro là chọn các Công ty được kiểm toán bởi Big4, xem kĩ chính sách kế toán và các thuyết minh về những khoản mục trọng yếu đối với các khách hàng có số dư lớn. Bất kỳ “quyết định” quản trị nào liên quan tới việc thay đổi chính sách kế toán (accounting decision) cũng là một dấu chấm hỏi rất lớn đối với nhà đầu tư. Những thuyết minh nên cung cấp nhiều “câu trả lời” hơn là tạo ra thêm các câu hỏi, tránh xa các công ty mà đảo ngược mệnh đề này lại. Trên hết là chọn những công ty có khoản phải thu thấp với chính sách kế toán nhất quán.

Charlie Munger “Nếu tôi biết tôi sẽ chết ở nơi nào, tôi sẽ không bao giờ đi tới đó”, tư duy ngược tìm kiếm các vấn đề tiêu cực cũng là một cách rất tốt để bảo vệ mình trước những gian lận.

III. Di chuyển dòng tiền ra từ hoạt động kinh doanh (CFFO) sang dòng tiền đầu tư (CFFI):

3.1 “Đẩy mạnh” CFFO bằng các giao dịch Boomerang:

Thường được tạo ra giữa các bên độc lập nhưng là khách hàng của nhau, giao dịch này về bản chất là trao đổi các loại sản phẩm, dịch vụ với nhau và đôi bên cùng có lợi. Dòng tiền vào được phân loại là dòng tiền kinh doanh trong khi tiền ra phân loại vào dòng tiền đầu tư để mở rộng hoạt động kinh doanh. Trên thực tế dòng tiền ra hoàn toàn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh chính mà không phải là hoạt động đầu tư. Thông thường với tác động và sự tập trung vào các đối tác lớn mới tác động được đáng kể tới dòng tiền, đối với các khoản chi đầu tư bất thường với số dư lớn này cần được tìm hiểu kĩ lưỡng và biến số dòng tiền tự do sẽ phát huy tác dụng trong trường hợp này. Ví dụ một công ty xây dựng cung cấp dịch vụ cho chủ đầu tư là công ty bất động sản được trả thu nhập một phần bằng cách sản phẩm bất động sản, hoặc một công ty thép cung cấp thép cho các công ty xây dựng để xây nhà máy cho chính công ty thép đều là những giao dịch dễ bị lẫn lộn về mặt bản chất kinh tế.

3.2 Vốn hóa không hợp lý các chi phí hoạt động thông thường:

Lợi nhuận tăng do kéo dãn chi phí từ việc vốn hóa không hợp lý các chi phí thành tài sản là việc khó kiểm soát. Việc làm này phức tạp để nhận biết nhưng đối với DN rất dễ để thực hiện, nó không những làm tăng lợi nhuận mà còn làm tăng dòng tiền hoạt động kinh doanh do dòng tiền ra được ghi nhận là dòng tiền đầu tư, sau đó lại được cộng ngược lại khi tính toán khấu hao cho những kỳ kế toán sau. Các chi phí dễ bị vốn hóa liên quan tới các dự án dài hơi như : sửa chữa lớn, phát triển phần mềm, chi phí thu hút khách hàng (marketing), chi phí nghiên cứu và phát triển, chi phí lãi vay trong quá trình xây dựng cơ bản dở dang…Những công ty thâm dụng vốn lớn như sản xuất thép, ngành điện, vận tải hàng không, dược, cách DN khoa học công nghệ… thường phát sinh những chi phí hoạt động định kỳ này và cần được xem xét kĩ, dòng tiền tự do cũng phát huy sức mạnh trong trường hợp này.

3.3 Ghi nhận việc mua hàng tồn kho như là dòng tiền ra của CFFI: 

Để tránh việc gây hiểu lầm giữa các loại chi phí này, nhà đầu tư cần nắm rõ bản chất kinh tế, hoạt động kinh doanh của DN, ví dụ đối với các DN khoa học công nghệ, tiền lương trả cho nhân viên trong nghiên cứu phát triển các sản phẩm nội bộ là một chi phí hoạt động thông thường. Đối với các công ty công nghệ hoặc dược, tiền trả để mua bản quyền, bằng sáng chế cũng được phân loại như dòng tiền hoạt động bình thường. Trong một số các giao dịch, các công ty này có thể không thanh toán tiền mặt ngay mà trả chậm, như vậy sẽ không tác động tới dòng tiền, dòng tiền ra để trả nợ trong tương lai có thể được ghi nhận vào dòng tiền tài chính.

Nhà đầu tư có thể tìm kiếm các công ty cùng ngành nghề để so sánh chính sách giữa các công ty từ đó có được nguồn tham chiếu tốt hơn.

IV. Tăng dòng tiền kinh doanh qua các thương vụ M&a

Việc làm này thường phổ biến trong các Tập đoàn lớn thường xuyên thực hiện các thương vụ mua lại, xét về mặt tích cực đối với các Tập đoàn muốn mở rộng hoạt động, họ sẽ đi tìm mua những Công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững với dòng tiền mạnh. Tuy nhiên, ở góc độ tiêu cực khi muốn che dấu đi sự yếu của dòng tiền các kỹ thuật họ có thể sử dụng như sau:

4.1 Thừa hưởng CFFO thông thường trong các thương vụ M&a

Nhờ lỗ hổng trong các nguyên tắc kế toán, việc mua lại các công ty làm thúc đẩy CFFO. Khi nắm quyền kiểm soát của các Công ty, việc mua lại bằng tiền mặt sẽ thể hiện dòng tiền ra trong hoạt đồng đầu tư nhưng khi mua lại bằng việc phát hành cổ phiếu, không có dòng tiền phát sinh. Việc hợp nhất làm gia tăng doanh thu, lợi nhuận và tài sản của Công ty mẹ một cách nhanh chóng. Đặc biệt đối với các công ty bị mua lại có dòng tiền kinh doanh mạnh, vốn lưu động ròng luôn dương, việc thu hồi tiền từ các khoản phải thu mà chi phí để có được khoản phải thu đó đã chi ra ở trước thời điểm hợp nhất. Tương tự như vậy, hàng tồn kho có sẵn đã chi ra và bây giờ chỉ việc bán hàng hoặc thanh lý sẽ có dòng tiền vào từ kinh doanh. Một thương vụ sẽ không đủ lớn để tác động tới tình hình công ty mẹ nhưng vài chục hoặc vài trăm thương vụ thì có khả năng đạt được “sức mạnh cộng hưởng” như các Tập đoàn đã công bố. Một số công ty còn tích cực hơn khi tham gia vào các thương vụ này, bằng cách kéo giãn thời gian thu hồi nợ, trì hoãn việc bán hàng và kéo dài công nợ với nhà cung cấp qua thời điểm hợp nhất, các Công ty có thể có một dòng tiền dồi dào hơn và một báo cáo đẹp hơn sau khi hợp nhất.

Nhà đầu tư cần hiểu rằng dòng tiền mạnh lên đơn giản là do thừa hưởng từ các thương vụ M&A dù là vô tình hay hữu ý, hiệu suất của các thương vụ M&A khó có thể đo lường được ngay vì có các điều khoản bí mật trước, trong và sau các thương vụ nên thông tin ít được công bố ra bên ngoài. Các Tập đoàn bất động sản và đa ngành nghề khác như bán lẻ, tiêu dùng khi thực hiện hàng loạt thương vụ có thể không phải là cuộc chơi của những nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ có thể tham gia vào.

4.2 Mua lại những hợp đồng hoặc khách hàng hơn là tự thân phát triển:

Thường các công ty tự sản xuất tự phân phối trực tiếp qua kênh bán hàng của mình và qua các đại lý có thể sử dụng kỹ thuật này. Với việc ‘mua lại” những hợp đồng bán hàng từ mạng lưới các đại lý, dòng tiền ra thực chất là tiền chi ra cho hoạt động kinh doanh và Công ty có thể dễ dàng ghi nhận nó vào dòng tiền đầu tư. Một số công ty sáng tạo hơn bằng cách đưa ra một “mức phí kết nối nhà phân phối”, dĩ nhiên các nhà phân phối sẽ không chấp nhận điều khoản này, bù lại Công ty sẽ nâng giá mua các hợp đồng đúng bằng mức phí phân phối này và như vậy lượng tiền chi ra không có gì khác biệt nhưng mức phí ghi trong hợp đồng được ghi nhận là dòng tiền vào từ HĐKD.

4.3 Gia tăng CFFO bằng việc sáng tạo trong bán các tài sản:

Thông thường khi hoạt động khó khăn hiệu suất sử dụng tài sản của các công ty cũng sẽ rất thấp, để tái cấu trúc thì việc bán tài sản là một trong những phương án chủ chốt. Tuy nhiên, ngay cả khi khó khăn nhất công ty cũng không quên đi nghĩa vụ phải làm đẹp BCTC. Bằng cách bán tài sản ở giá chiết khấu cho đối tác quen thuộc trong chuỗi giá trị, đồng thời bên đối tác sẽ cam kết mua lại hàng hóa tương lai với giá cao hơn giá thị trường (hai khoản chênh lệch này bù trừ lẫn nhau với bản chất không thay đổi là bán tài sản và bán sản phẩm của Công ty).

Theo lẽ thông thường, việc bán tài sản làm phát sinh thu nhập và dòng tiền vào từ hoạt động đầu tư rất lớn nhưng Công ty với mục tiêu kiên định là tăng Dòng tiền từ HĐKD, phần chênh lệch được ghi nhận vào khoản phải thu của bên bán tài sản và sẽ được thanh toán trong kỳ sau khi DN bên mua thực hiện mua sản phẩm. Như vậy, kết quả sau cùng thu nhập từ hoạt động đầu tư sẽ giảm xuống, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh lại tăng lên do Công ty bóp méo bản chất kinh tế thực của các giao dịch. Giao dịch này khá phức tạp về mặt hạch toán kế toán và “thông minh” nhưng đã xảy ra tại Việt Nam trong lĩnh vực tôn thép, xây dựng dù họ không có chủ đích làm đẹp dòng tiền mà chuyển hẳn dòng tiền ra khỏi công ty.

Ngoài ra, còn nhiều thủ thuật và các kỹ thuật khác để làm đẹp bức tranh tài chính của Công ty, có câu “ngựa quen đường cũ”, những công ty nào thường xuyên ra các quyết định liên quan tới kế toán nhằm thay đổi bản chất thực, họ sẽ không ngừng làm và cải tiến các kỹ thuật của mình. Nhiệm vụ của nhà đầu tư cũng phải học hỏi không ngừng vì “thương trường cũng là chiến trường” nhằm bảo vệ chính bản thân mình và tuân thủ nguyên tắc đầu tiên tối quan trọng trong đầu tư là “không để mất tiền”.

“Có thể chúng tôi chưa hoàn hảo, nhưng chúng tôi biết cách nỗ lực và học hỏi để trở thành nhà đầu tư giá trị” – VOT PARTNERS

Đăng ký nhận thông tin mới nhất



Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết mới nhất: