fbpx

Các mức độ gian lận Báo cáo tài chính (2)

“Đừng để thời gian trôi qua thật lãng phí, hãy đọc và suy ngẫm để tạo ra giá trị bền vững trong tương lai” VOT PARTNERS

Một số trường hợp gian lận BCTC

I. Thế nào là một Báo cáo tài chính “hữu ích”

“Các dự báo về thị trường nói cho chúng ta biết nhiều hơn về người dự báo” – Warren Buffett, điều này khác với việc dự báo về các yếu tố định lượng dựa trên báo cáo tài chính, có câu nói thà làm gần đúng còn hơn là sai hoàn toàn vì vậy những việc không đáng để làm thì cũng không đáng để làm tốt. Báo cáo tài chính nên được xem là nguyên liệu đầu vào để xử lý tiếp chứ không phải dùng để ra quyết định, việc dự báo cần kết hợp thêm nhiều kỹ năng xâu chuỗi, đánh giá khác, thực trạng trình bày báo cáo tài chính ở Việt Nam thì còn khá nhiều dấu chấm hỏi cần giải quyết, trước khi biết về các yếu tố tiêu cực cần biết được một Báo cáo tài chính hữu ích sẽ bao gồm các nhân tố rất quan trọng sau đây:

1. Các nhà quản lý đang điều hành tốt như thế nào

2. Khả năng thực hiện các nghĩa vụ trong tương lai

3. Doanh nghiệp trị giá bao nhiêu.

Để nhà đầu tư đánh giá được và đưa ra 3 kết luận trên thì thông tin cần được cung cấp một cách trung thực, đầy đủ và cả công bằng cho tất cả cổ đông. Cần nhiều hơn là những lời giải trình để mọi thứ nằm ở ngoài ánh sáng, điều này không hề làm giảm lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp mà ngược lại có tác dụng tích cực trong dài hạn. Vì lợi thế cạnh tranh nằm ở rất nhiều yếu tố mà những doanh nghiệp khác không thể sao chép được từ các mô hình kinh doanh tuyệt vời bằng việc đọc báo cáo tài chính. Đầu tư nếu xét theo quy trình chỉ nằm ở hai việc là mua và bán, gần đây được một CEO của một Ngân hàng lớn ở Việt Nam đánh giá là việc rất khó và ông cũng không đầu tư cá nhân. Chính vì đây là việc khó khăn nên cần quá trình dài, sự kiên nhẫn học hỏi và trên thực tế là các nhà đầu tư thành công chiếm tỷ trọng rất nhỏ nhưng tài sản lại cực kỳ lớn. Warren Buffett và Charlie Munger vốn không đặt trọng tâm vào việc xử lý các vấn đề quá khó khăn trong kinh doanh của doanh nghiệp, thay vào đó họ học cách nhận biết những khó khăn, gian lận trong kinh doanh, tiêu biểu là gian lận về các con số kế toán, từ đó tránh xa nó ra sẽ tốt hơn là việc lao vào để giải quyết trong nhiều thập kỷ. Dựa trên các mức độ gian lận ở kỳ trước, người viết đưa ra các ví dụ cho các trường hợp tiêu biểu nhằm mục đích tham khảo và đặt dấu chấm hỏi, vì thực sự bản chất kinh tế sâu bên trong thế nào chỉ có ban lãnh đạo và các bên liên quan mới có thể nắm được, nhưng có một nguyên lý chung là nếu tư duy khía cạnh động cơ thì hầu hết giao dịch phát sinh trong doanh nghiệp đều có các mục đích kinh tế đằng sau đó.

 

II. Động cơ và mục đích kinh tế của một số trường hợp:

2.1 Tổng công tỷ Cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí (PVD)

Đối với trường hợp của Tổng công ty Cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan dầu khí (PVD) kéo dài thời gian trích khấu hao cho tài sản cố định hữu hình từ 20 năm lên 35 năm sẽ làm giảm giá vốn giúp cho lợi nhuận kế toán trong công ty có vẻ đẹp hơn, trên thực tế không có lợi thế kinh doanh nào được tạo ra nhờ thay đổi chính sách kế toán này, công ty đã có giải trình đầy đủ với lý do là tuổi thọ giàn khoan theo chính sách của công ty thấp hơn so với các công ty trong cùng ngành nghề trên thế giới. Hoạt động kinh doanh của công ty bao năm qua vẫn khó khăn đủ đường vì giá dầu giảm, điều duy nhất tích cực là khi hiệu suất sử dụng giàn khoan cùng giá cho thuê giàn tăng lên theo khối lượng công việc, giá dầu và các dự án lớn sắp được triển khai. Thủ thuật làm đẹp này không gây tác động tiêu cực gì cho cổ đông nếu đánh giá về thời gian sử dụng của công ty là hợp lý, cũng cần lưu ý thêm là thực tế khấu hao là chi phí không bằng tiền nhưng bất cứ sự đánh giá thấp nào về chi phí này đều phải trả giá về dài hạn.

2.2 Công ty Cổ phần Dược phẩm Trung ương 3 (DP3)

Trường hợp tiếp theo là Công ty Cổ phần Dược phẩm Trung ương 3 (DP3) gần đây có sự pha loãng khá lớn khi phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, phát hành riêng lẻ kèm Esop, một số dấu hiệu chú ý ban đầu là giá cổ phiếu biến động khá lớn trong ngắn hạn, đi kèm với giao dịch nhiều của ban lãnh đạo chủ chốt trong suốt thời gian này chủ yếu là mua ròng. Xét về cơ cấu cổ đông công ty DP3 không có các bên đối trọng là tổ chức lớn hoặc các quỹ đầu tư, cần xem xét các sự kiễn theo chuỗi thời gian để đưa ra các câu hỏi hợp lý. Cấu trúc chào bán 1,8 triệu cổ phiếu (tương đương 26% lượng cổ phiếu đang lưu hành)  như sau:

– Bán cho cổ đông hiện hữu: 850 nghìn cổ phiếu giá 26.400 đồng/cp, thời gian đăng ký mua từ ngày 20/02/2019 tới ngày 11/03/2019.

– Bán đấu giá: 850 nghìn cổ phiếu, giá khởi điểm 66.000 đồng/cp, thời gian nộp tiền từ ngày 12/3/2019 đến ngày 14/3/2019, kết quả có 1 tổ chức và 1 cá nhân trúng thầu giá bình quân 76.706 đồng/cổ phần, lượng đặt mua gấp hơn 2 lần lượng bán.

– Bán cho CBCNV: 100 nghìn cổ phiếu.

Giá thị trường cổ phiếu diễn biến khá tiêu cực kể từ đầu tháng 1 tới cuối tháng, giá giảm từ vùng quanh 85.000 đồng/cp xuống còn khoảng 64.000 đồng/cp tức quanh vùng giá khởi điểm đấu giá và phục hồi lại lên vùng 78.000 đồng/cp sau thời điểm đấu giá thành công. Trước thời điểm đấu giá ban lãnh đạo có đăng ký bán 200.000 cp nhưng chỉ có 2.200 cp được giao dịch thành công, trong thời điểm đấu giá một số lãnh đạo khác lại đăng mua gần 400.000 cổ phiếu và giao dịch thành công hoàn toàn và có một cổ đông cá nhân trở thành cổ đông lớn vào ngày 12/03/2019. Vào tháng 5 công ty chia cổ tức 50% vì tình hình kinh doanh khả quan trong năm 2018 với lợi nhuận sau thuế tăng hơn gấp đôi.

Quan sát báo cáo tài chính theo từng quý thì thấy trong quý 4 lợi nhuận sau thuế bị âm hơn 4 tỷ đồng, các định phí và biến phí khác bình thường tương đối hợp lý trong năm ngoại trừ chi phí bán hàng trong quý IV, tính tới quý III, công ty đã chi tổng cộng hơn 108 tỷ đồng (cùng kỳ là 105 tỷ đồng) cho việc bán hàng thì quý IV chi phí này nâng lên hơn 153 tỷ đồng trong đó chủ yếu là chi phí quảng cáo hơn 124 tỷ đồng, đáng chú ý là tính tới hết quý III khoản chi phí bằng tiền khác cho hoạt động bán hàng hơn 93 tỷ đồng được chuyển toàn bộ sang chi phí quảng cáo, số dư cuối kỳ của khoản mục này chỉ còn lại hơn 7 tỷ đồng. Theo cách hiểu về kế toán, chi phí khác bằng tiền trong hoạt động bán hàng có thể là các chi phí tiếp khách ở bộ phận bán hàng, chi phí giới thiệu sản phẩm, hàng hóa, quảng cáo, hội nghị khách hàng có thể được ghi nhận vào một tài khoản cấp 2 là tk 6418. Bên cạnh đó, con số trong báo cáo quý IV/2018  do công ty tự lập lại khác so với báo cáo năm 2017 ( được kiểm toán).Chi tiết như sau:

Chi phí bán hàng phát sinh theo Báo cáo quý IV/2018 (công ty tự lập):

Chi phí bán hàng phát sinh năm 2017 ( đã được kiểm toán):

Mặc dù tổng chi phí là không đổi nhưng chi phí thành phần đã thay đổi, cùng là chi phí bán hàng hạch toán trên một tài khoản nhưng nghiệp vụ phát sinh khác nhau về mặt bản chất. Báo cáo tài chính năm 2018 đã kiểm toán bởi Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, 2 khoản chi phí này lại được gộp chung thành một.

Xét theo bản chất kinh doanh của công ty thì chi phí quảng cáo lớn không phải là vấn đề quá bất thường của công ty vì các sản phẩm thường được quảng cáo trên kênh VTV vào các giờ vàng, sản phẩm được tiêu thụ chủ yếu qua kênh OTC,  nhưng việc này cần được giải trình rõ hơn . Việc phát hành thêm để bổ sung vốn lưu động có lẽ đã tiêu hết vào quảng cáo chiếm hơn 30% doanh thu thuần của công ty, theo quan điểm của người viết đối với các chi phí lớn phát sinh khi ký hợp đồng quảng cáo cần được treo trên các tài khoản chi phí phải trả ngắn hoặc dài vì tiến độ thanh toán đã quy định sẵn trong hợp đồng, theo báo cáo tài chính quý II và quý III/2018 bảng cân đối đều không xuất hiện các khoản chi phí này khiến nợ phải trả của Công ty có thể giảm xuống.

III. Một số nghiệp vụ làm đẹp kết quả kinh doanh

Hiện tại đang là mùa Đại hội cổ đông cùng với việc công bố Báo cáo tài chính năm 2018 (kiểm toán), tình trạng tái diễn chênh lệch số liệu trước và sau kiểm toán vẫn tiếp diễn như các năm trước với một số cái tên rất quen thuộc, đây đều là những doanh nghiệp đang trong tình trạng tái cấu trúc, gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Đáng chú ý đa phần các chênh lệch đều theo hướng “có lợi” cho doanh nghiệp, chuyển từ lỗ thành lãi nhiều hơn là ngược lại (một số doanh nghiệp giấu lãi) nên đã dồn doanh thu qua năm sau, một số nghiệp vụ phát sinh sau khi kết sổ nhưng có tác động ngược lại tới hoạt động kinh doanh trong năm phải hồi tố ngược lại. Vẫn là những nguyên nhân quen thuộc :

– Không trích lập dự phòng tồn kho và phải thu hoặc trích sai quy định, không trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán hoặc công ty liên kết như trường hợp của CTCP Hùng Vương, trên báo cáo riêng chi phí tài chính tăng mạnh do tăng dự phòng vào các công ty liên kết, tăng chi phí quản lý doanh nghiệp do trích lập dự phòng phải thu khó đòi chưa hợp lý. Các bút toán phân loại lại trong các khoản mục phải thu khách hàng, người mua trả tiền trước, phải trả người bán, trả trước cho người bán thực chất do hạch toán sai bản chất được công ty TNHH kiểm toán E&Y Việt Nam phân loại lại và công ty đã giải trình khá rõ. Tình trạng vốn lưu động ròng âm và lỗ lũy kế được E&Y nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục, trường hợp này các ý kiến của Công ty kiểm toán rất có giá trị.

– Ghi nhận cả giao dịch với các công ty con,. Sai sót trong công ty con dẫn tới hợp nhất vào công ty mẹ sai theo như trường hợp của CTCP Nông dược H.A.I ( do công ty AASC kiểm toán) từ khoản lỗ 4,5 tỷ đồng giảm xuống thành lỗ hơn 71 tỷ đồng do một hợp đồng chuyển nhượng cổ phần của công ty mẹ cho cổ đông thiểu số của công ty con, đây là nguyên tắc căn bản của kế toán khoản lợi nhuận này sẽ không được đưa vào Báo cáo lãi/lỗ trong kỳ, chưa kể tính pháp lý của bản hợp đồng, đồng thời doanh thu tăng do nhầm lẫn giữa việc hợp nhất của các công ty con (theo doanh nghiệp giải trình).

– Không ghi nhận hàng tồn kho có thể do bán lỗ, trường hợp Sau kiểm toán CTCP Tập đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành (TTF) lỗ thêm 68 tỷ đồng, doanh thu thuần tăng thêm 17 tỷ đồng, giá vốn hàng bán tăng tới 85 tỷ đồng, hàng tồn kho giảm 371 tỷ đồng, phải thu ngắn hạn tăng thêm 210 tỷ đồng, nợ phải trả tăng thêm 456 tỷ đồng, trường hợp này kiểm toán E&Y không đưa ra ý kiến nhấn mạnh cho hoạt động kinh doanh của TTF cho khoản lỗ lũy kế đã gần ăn hết vốn chủ.

Sự chênh lệch làm làm giảm niềm tin từ các nhà đầu tư trong trường hợp chênh lệch nhỏ, chênh lệch lớn gây hiểu lầm có thể khiến nhà đầu tư “lãnh đủ” vì hiện nay chưa có quy định cụ thể nào để xử phạt các doanh nghiệp liên tục có sự sai lệch về con số trong BCTC trước và sau kiểm toán ngoại trừ ý kiến của kiểm toán là một trong những căn cứ để sở giao dịch xem xét cổ phiếu đó có được đưa vào danh mục ký quỹ hay không. Ngoài ra thì đưa vào diện cảnh báo, kiểm soát đặc biệt hay hủy niêm yết bắt buộc. Chính vì vậy, ngoài sai sót một cách khách quan trong ghi chép, nhầm lẫn thì các sai sót đa phần có mục đích kinh tế phía sau, tệ hơn nữa có sự kết hợp của công ty kiểm toán và một bên thứ ba khác như Ngân hàng hỗ trợ thì các nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ chỉ có “bó tay”, các trường hợp đáng tiếc xảy ra nhiều như JVC, TTF, HAI,..…Câu hỏi về việc quy trách nhiệm và chế tài bảo vệ nhà đầu tư vẫn chưa có câu trả lời chính thức.

“Có thể chúng tôi chưa hoàn hảo, nhưng chúng tôi biết cách nỗ lực và học hỏi để trở thành nhà đầu tư giá trị” – VOT PARTNERS

Đăng ký nhận thông tin mới nhất



Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết mới nhất: