I. Vấn đề về tăng trưởng tín dụng và những tranh cãi
Ngày 31/12/2019, trong buổi họp báo tổng kết của NHNN, con số đáng chú ý là tăng trưởng tín dụng đạt khoảng trên 13%, mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây và sát với mục tiêu kế hoạch đề ra là 14%. Một phát biểu cũng rất ấn tượng của Thủ tướng trong cuộc họp là “Làm chính sách tiền tệ mà không giúp đẩy mạnh tăng trưởng thì làm cái gì”. Ông cho rằng ngành Ngân hàng phải có tinh thần xốc tới để đưa đất nước tiến lên và phát triển. Cùng với sự sụt giảm của tăng trưởng tín dụng, tính tới cuối quý 3/2019, đà tăng trưởng lợi nhuận của các DN niêm yết cũng đã chậm lại so với cùng kỳ và trong 9 tháng đầu năm 2019, một số thống kê trên 553 DN niêm yết đạt tăng trưởng 11,66% so với cùng kỳ năm 2018, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng của 9 tháng năm 2018 là 29,8%.
Thị trường chứng khoán nhìn trong ngắn hạn khoảng 2 năm qua thì Vn-index hầu như “không nhúc nhích” nhưng nhìn dài hạn khoảng 6 năm kể từ khi thị trường giảm về mức 525 điểm, mức sinh lời kép hàng năm đạt khoảng gần 12%/năm, cao hơn mức lãi suất tiết kiệm đáng kể và “rất khó” để chiến thắng được điểm số nếu cứ mải mê chạy theo những con sóng ngắn hạn. Một vài tranh cãi xoay quanh vấn đề tăng trưởng của điểm số những năm về trước tới chủ yếu từ các ngành chiếm tỷ trọng cao như Ngân hàng, bất động sản, tiêu dùng, bán lẻ, xây dựng và vật liệu xây dựng….và việc siết tăng trưởng tín dụng cùng với hạn chế dòng vốn vào ngành bất động sản, các ngành nghề có tính chu kỳ khác cũng bị ảnh hưởng từ việc tăng trưởng chậm hơn của ngành Ngân hàng khiến mức tăng trưởng không bền vững như khi rót vốn vào các ngành sản xuất, tiêu dùng…Một tranh cãi khác là nếu vốn vay ngân hàng đổ vào những ngành nghề không hiệu quả thì tình hình sẽ kém khả quan hơn và “thà” rót vào những ngành tăng trưởng sẽ tạo ra giá trị nhiều hơn. Thật khó để khẳng định vấn đề nào là “hệ quả” của vấn đề nào nhưng căn cứ theo định hướng phát triển kinh tế cũng ưu tiên theo hướng đẩy mạnh “công nghiệp hóa- hiện đại hóa”, tập trung phấn đấu trở thành nước công nghiệp năm 2030 trong bối cảnh hội nhập sâu với thị trường thế giới và cuộc cách mạng 4.0, một số nhóm ngành là ưu tiên như: cơ khí – luyện kim, chế biến nông-lâm-thủy sản, dệt may, da giày, điện tử viễn thông, năng lượng mới và năng lượng tái tạo….là những ngành tạo ra giá trị thặng dư bền vững cho nền kinh tế. Việc dự báo tương lai dễ rơi vào tình trạng “thầy bói xem voi” đặc biệt đối với 1 vấn đề quá lớn như là dự báo nền kinh tế. Tuy nhiên, xét về mặt hiện tượng ở trong mỗi giai đoạn của nền kinh tế đi kèm với nhiều biến số vĩ mô khác cũng biểu hiện tính tương quan trong giai đoạn này. Ví dụ tăng trưởng kinh tế cao đi kèm với tăng trưởng tín dụng cao, lãi suất thấp….nhưng chỉ khi mặt bằng lãi suất lên tới ngưỡng rất cao và các chỉ số tăng trưởng rất kém, lạm phát tăng cao mới biểu hiện rõ nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái. Tóm lại, việc dự báo thường không đủ cơ sở và độ tin cậy, thay vào đó việc phân tích tình hình hiện tại sẽ cung cấp nhiều thông tin và góc nhìn thực tế hơn.
II. Vấn đề nợ vay trong cấu trúc hoạt động của 1 DN
III. Áp dụng thực tế vào ba loại hình Doanh nghiệp với 3 sự nhìn nhận về giá trị khác nhau
Như đã đề cập phía trên, việc dự báo tương lai rất khó khăn dù là nền kinh tế hay lợi nhuận tương lai của 1 DN. Đôi khi ban lãnh đạo Công ty cũng khó có thể lường trước được xu hướng tương lai của thị trường. Họ sử dụng các con số để nắm bắt tình hình DN và ra những quyết định quản trị, kinh doanh dựa trên kinh nghiệm và hiểu biết tương đối của họ về thị trường. Các nhà đầu tư hoặc các báo cáo phân tích lại đang cố gắng dự báo những con số lợi nhuận thay vì tập trung vào HĐKD chính của DN. Về mặt nguyên tắc thì DN càng kiếm được nhiều tiền (sau khi trừ chi phí) thì chủ sở hữu các DN này cũng sẽ kiếm được những “giá trị” từ khả năng tạo tiền của DN, cụ thể là gia tăng giá cổ phần và cổ tức. Nhưng ngược lại nếu DN đang kinh doanh kém hiệu quả thì nhà đầu tư cần hiểu rằng quyền của chủ nợ và các nghĩa vụ nợ của DN sẽ “cao hơn” quyền của cổ đông để đảm bảo cho họ thu được vốn gốc và lãi vay. Ba loại hình DN theo bảng dưới đây:
Đối với PNJ là mô hình bán lẻ trang sức theo chuỗi có khả năng mở rộng rất nhanh trong thời gian ngắn hơn nên giá trị DN trong giai đoạn này thường phản ánh cả tốc độ tăng trưởng về mặt lợi nhuận mặc dù lượng cổ tức trả thấp. Lợi nhuận được giữ lại tái đầu tư với tỷ suất tiếp tục được cải thiện vì công ty càng mở rộng hiệu quả, chi phí biên để đạt được 1 đồng lợi nhuận có thể càng nhỏ. Công ty chủ yếu vay nợ ngắn hạn lại thu tiền bán hàng ngay nên rủi ro về mặt hoàn trả vốn gốc sẽ thấp miễn là doanh số không có sự sụt giảm đột ngột, nhưng xét về mặt hiệu quả hoạt động việc vay nhiều hơn nhu cầu vốn lưu động thực tế sẽ gây ảnh hưởng tới hiệu quả HĐKD của DN và điều này có thể gây ra một vòng luẩn quẩn nếu DN duy trì tỷ lệ nợ cao cho việc mở rộng.
IV. Chu kỳ nợ ảnh hưởng như thế nào tới các Doanh nghiệp
Một số ý kiến cho rằng nên tận dụng “đòn bẩy” để tối ưu lợi nhuận và khi bạn nợ Ngân hàng hàng trăm, hàng nghìn tỷ thì vấn đề là của Ngân hàng chứ không phải của bạn. Nhưng rõ ràng việc thành lập DN để phát triển những mục tiêu lớn lao chứ không phải để đi vay NH và sau đó dành nguồn lực cho việc xử lý những tồn đọng yếu kém trong kinh doanh. Người cho vay mạo hiểm sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn người bảo thủ miễn là môi trường tín dụng còn tốt đẹp và ngược lại lợi nhuận chỉ đến với các ngân hàng có chính sách cho vay thận trọng trong môi trường tín dụng đang xấu đi nhưng nợ xấu không gia tăng. Vì đặc thù ngành Ngân hàng sử dụng đòn bẩy cao lại phụ thuộc vào chu kỳ phát triển kinh tế nên dư nợ cho vay cũng sẽ theo chu kỳ này. Khi chính sách cho vay siết chặt khả năng cao DN phải thu hẹp quy mô do việc giảm hạn mức tín dụng từ NH và tất nhiên giá trị nhận được của cổ đông cũng sẽ sụt giảm. Thông thường các NH đều có định hướng tín dụng cho các ngành nghề hàng năm và trong trường hợp bảng cân đối của các DN xấu đi, khả năng sẽ phải giảm hạn mức hoặc gia tăng tài sản đảm bảo. Đó là một trong những rủi ro của các DN có nợ vay lớn và ngành nghề có tính chu kỳ cao.
Bài viết mới nhất:
Ngành Ngành logistics Nghiên cứu chuyên sâu
Để Logistics phát triển: Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa (Case study: TMS)
BÁO CÁO ĐẦU TƯ GIÁ TRỊ NGÀNH LOGISTICS THIÊN THỜI – ĐỊA LỢI – NHÂN [...]
2 Comments
Nghiên cứu chuyên sâu Ngành Ngành nước
Mặt trái ngành nước và Ba yếu tố tạo nên sự vượt trội (Case Study: Biwase – BWE)
Trong rất nhiều sản phẩm và dịch vụ kinh doanh, căn cứ vào mức độ [...]
6 Comments
Góc lý thuyết Tủ sách đầu tư
Giá trị của “dĩ bất biến” và “ứng vạn biến”
Điều quan trọng duy nhất mà một tổ chức Cần luôn kiên định chính là [...]
Góc lý thuyết Tủ sách đầu tư
Trích đoạn nhìn nhận về giá trị doanh nghiệp Starbucks
Phố Wall chỉ xác định giá của một công ty, chứ không phải giá trị [...]
Nghiên cứu chuyên sâu Ngành Ngành bán lẻ
Tiêu chí tạo nên lợi thế cạnh tranh của nhà bán lẻ thực phẩm (Case Study: Bách hóa xanh)
Bài nghiên cứu chuyên sâu này sẽ cho bạn một góc nhìn đầu tư trông [...]
Góc lý thuyết Tủ sách đầu tư
ĐO LƯỜNG RỦI RO
Tôi chắc chắn rằng chúng ta cũng đồng ý rằng các nhà đầu tư nên [...]
Góc lý thuyết Tủ sách đầu tư
Tính cách của Nhà đầu tư thực sự!!
Trích trong cuốn: “Phương pháp đầu tư Warren Buffett” của tác giả Robert G. Hagstrom [...]
Góc lý thuyết Tủ sách đầu tư
Li Lu chia sẻ kiến thức chuyên sâu về đầu tư giá trị
(Trích từ chương trình Nhà đầu tư triệu phú) Kính gửi tất cả mọi [...]
Góc lý thuyết Tủ sách đầu tư
CHÚC MỪNG SINH NHẬT ÔNG WARREN BUFFETT 30/8/1930 – 90 TUỔI
WARREN BUFFETT VỚI KHOẢN TIỀN CẮT TÓC CÓ GIÁ 300.000 USD Vị chủ tịch [...]
Học để đầu tư Phòng khởi động
MOAT (con hào) của nhà đầu tư
Con hào (Moat) là một lợi thế cạnh tranh mà một công ty có được [...]